Đề bài: Những đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam từ cách mạng tháng tám năm 1945 đến năm 1975?
Trả lời:
a) Nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu:
Bạn đang xem: Những đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam từ cách mạng tháng tám năm 1945 đến năm 1975?
Văn học trước hết phải là một thứ vũ khí chiến đấu. Ý thức, trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ được đề cao. Quá trình vận động, phát triển của nền văn học mới ăn nhịp với từng chặng đường lịch sử của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Tập trung vào đề tài Tổ quốc và CNXH, xây dựng nhân vật trung tâm là người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang và hình ảnh con người mới.
b) Nền văn học hướng về đại chúng:
Đại chúng vừa là đối tượng phản ánh và đối tượng phục vụ, vừa là nguồn cung cấp, bổ sung lực lượng sáng tác cho văn học. Văn học quan tâm tới đời sống nhân dân lao động, nói lên nỗi bất hạnh của họ trong xã hội cũ, niềm vui, niềm tự hào về cuộc đời mới, thể hiện con đường tất yếu đến với cách mạng, phát hiện ở họ khả năng cách mạng và phẩm chất anh hùng. Đó là nền văn học có tính nhân dân sâu sắc và nội dung nhân đạo mới.
Về hình thức, phần lớn các tác phẩm đều ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng, hình thức nghệ thuật quen thuộc.
c) Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn:
– Khuynh hướng sử thi: tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản nhất có ý nghĩa sống còn của đất nước. Nhân vật chính thường tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó số phận mình với số phận đất nước, thể hiện và kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cả cộng đồng. Lời văn sử thi mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ, hào hùng.
– Cảm hứng lãng mạn: chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
– Về nghệ thuật, đặc điểm trên thể hiện ở hướng vận động của cốt truyện, xung đột nghệ thuật, số phận, tính cách nhân vật từ hiện đại vươn tới tương lai, từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ hy sinh tới niềm vui chiến thắng.
Ngoài ra, các em cùng THPT Ninh Châu tham khảo thêm một số tác phẩm nổi bật của văn học giai đoạn này nhé!
1. Thành tựu văn học giai đoạn 1945 – 1975
– Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta. Từ đây, một nền văn học mới gắn liền với lí tưởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội được khai sinh. Nền văn học mới đã phát triển qua hai giai đoạn: từ 1945 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX. Giai đoạn văn học từ năm 1945 đến năm 1975 là một giai đoạn văn học hết sức đặc biệt, bởi nó diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử cũng rất đặc biệt. Chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc,… Những sự kiện đó đã tác động mạnh mẽ đến nền văn học. Dưới sự lãng đạo của Đảng Cộng sản, đường lồi văn nghệ đã tạo nên một nền văn học thống nhất về tư tưởng, tổ chức và quan niệm nhà văn kiểu mới: nhà văn – chiến sĩ. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn và chậm phát triển nên việc giao lưu văn hóa với nước ngoài không thuận lợi, chỉ giới hạn ở một số nước như Liên Xô, Trung Quốc. Ở giai đoạn này, nhìn chung văn học Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn. Cụ thể như sau:
– Giai đoạn thứ nhất là từ năm 1945 đến năm 1954. Trong mười năm đầu, văn học tập trung ca ngợi Tổ quốc và quần chúng nhân dân. Nhiều tác phẩm đã phản ánh hình ảnh cả dân tộc tham gia kháng chiến với tinh thần hăng say, quên mình. Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống kháng chiến. Các nhà văn hướng ngòi bút của mình về quần chúng và ngợi ca sức mạnh của nhân dân bằng một niềm tin tất thắng. Văn xuôi giai đoạn này phát triển mạnh ở thể kí và truyện ngắn. Nhiều tập truyện, kí dày dặn đã được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam như Đôi mắt của Nam Cao, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài,… Thơ ca cũng có bước phát triển mới: thơ trữ tình công dân, ngợi ca đất nước và con ngươi kháng chiến chiếm vị trí chủ đạo; bên cạnh những thể thơ truyền thống còn có thơ tự do,- thơ không vần hoặc ít vần; cùng với cảm hứng anh hùng ca, thơ kháng chiến còn mang cảm hứng lãng mạn,… Tiêu biểu là các tác phẩm Cảnh khuya của Hồ Chí Minh, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi,… Kịch thời kì này cũng phản ánh sinh động hiện thực cách mạng và kháng chiến, tiêu biểu là vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hòa của Học Phi,… Lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học chưa phát triển nhưng đã có một số sự kiện và tác phẩm có ý nghĩa quan trọng như Nhận đường của Nguyễn Đình Thi, Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Hoài Thanh,…
– Giai đoạn thứ hai là từ năm 1955 đến năm 1964. ở thời kì này, văn học tập trung phản ánh hình ảnh con người mới, cuộc sống mới. Không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đem lại cho văn học một tiếng nói mới tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan. Nỗi đau chia cắt. và ý chí thống nhất đất nước tạo cho văn học một nội lực quan trọng. Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát nhiều vân đề, nhiều phạm vi của đời sống; nhiều tác phẩm viết về sự đổi đời của con người, sự biến đổi số phận và tính cách trong hoàn cảnh xã hội mới tốt đẹp, thể hiện khát vọng hạnh phúc của con người, có ý nghĩa nhân văn khá sâu sắc. Có những truyện ngắn, tiểu thuyết lấy đề tài về cuộc sống trước Cách mạng nhưng phân tích, khát quát theo quan điểm mới. Tiêu biểu là các tác phẩm như truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải, tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân,… Thơ ca cũng phát triển mạnh mẽ, nhiều tác phẩm có sự hài hòa giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn cách mạng. Cuộc sống mới với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nỗi đau chia cắt đất nước và nỗi nhớ miền Nam cùng với khát vọng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước,… là những nguồn cảm hứng lớn của thơ ca giai đoạn này. Tiêu biểu là các tập thơ Gió lộng của Tôt Hữu, Riêng chung của Xuân Diệu,… Kịch nói cũng có một số tác phẩm được dư luận chú ý như Ngọn lửa của Nguyễn Vũ, Nổi gió của Đào Hồng cẩm,…
– Giai đoạn thứ ba là từ năm 1965 dến năm 1975. Văn học chặng đường này tập trung viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Văn xuôi mang đậm chất kí, phản ánh nhanh nhạy, kịp thời cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân anh hùng. Tiêu biểu là truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, tiếu thuyết Hòn Đất của Anh Đức,… Thơ ca cũng có nhiều thành tựu xuất sắc, đào sâu và mở rộng phạm vi phản ánh, tăng cường chất suy tưởng và chính luận. Lịch sử văn học thời kì này trân trọng ghi nhận sự đóng góp của thế hệ các nhà thơ trẻ – những chiến sĩ đã đem đến cho thơ một tiếng nói trẻ trung, sôi nổi, góp phần xây dựng nên bức chân dung tinh thần của một thế hệ trẻ cầm súng. Tiêu biểu là các tác phẩm tập Ra trận của Tố Hữu, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm,… Kịch cũng có những thành tựu đáng ghi nhận như các vở kịch Đôi mắt của Vũ Dũng Minh, Quê hương Việt Nam của Xuân Trình,… Nhiều công trình nghiên cứu, lí luận, phê bình xuất hiện. Có giá trị hơn cả là những công trình của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu,…
2. Một số tác phẩm văn học tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên mọi bề.
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
*
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Đăng bởi: THPT Văn Hiến
Chuyên mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12